Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2016

Thơ sonnet của William Shakespeare (121 - 154)


121
'Tis better to be vile than vile esteemed,
When not to be receives reproach of being,
And the just pleasure lost, which is so deemed
Not by our feeling but by others' seeing.

For why should others' false adulterate eyes
Give salutation to my sportive blood?
Or on my frailties why are frailer spies,
Which in their wills count bad what I think good?

No, I am that I am, and they that level
At my abuses reckon up their own;
I may be straight though they themselves be bevel;
By their rank thoughts my deeds must not be shown,

Unless this general evil they maintain:
All men are bad and in their badness reign.

=121=
Thà đểu cáng hơn mang danh đểu cáng
Mặc dù anh chưa như thế bao giờ
Và niềm vui sẽ không hề chính đáng
Nếu chỉ theo quan điểm của người ta.

Mắt ganh tỵ thì làm sao hiểu được
Một trò chơi ở trong máu, trong người
Khi mà họ giống như là gián điệp
Dõi theo những gì xấu – tốt của tôi.

Tôi là tôi, ai có quyền xét đoán
Hành động của tôi theo ý của mình?
Vì có thể họ cong, còn tôi thẳng
Thì làm sao so sánh khỏi chênh vênh!

Và sẽ thấy mọi người đều có lỗi
Vì mọi người cũng giống như mình vậy.



122
Thy gift, thy tables, are within my brain
Full charactered with lasting memory,
Which shall above that idle rank remain
Beyond all date, even to eternity;

Or, at the least, so long as brain and heart
Have faculty by nature to subsist,
Till each to razed oblivion yield his part
Of thee, thy record never can be missed.

That poor retention could not so much hold,
Nor need I tallies thy dear love to score;
Therefore to give them from me was I bold,
To trust those tables that receive thee more:

To keep an adjunct to remember thee
Were to import forgetfulness in me.

=122=
Những gì của em anh giữ trong đầu
Kỷ niệm không phai nhòa trong ký ức
Sẽ vững bền chứ không như giấy mực
Hình bóng em sẽ còn mãi, dài lâu.

Hoặc ít ra khi con tim, khối óc
Còn có khả năng tồn tại trên trần
Khi xác thân chưa về cõi lãng quên
Thì những gì về em không thể mất.

Anh chỉ giữ gìn ở trong ký ức
Tất cả những gì em viết cho anh
Chính vì thế anh dễ dàng đem vứt
Rất khô khan, những trang giấy úa vàng.

Ai để nhớ tình phải cần lưu bút
Thì người này không tin vào trí óc.



123
No! Time, thou shalt not boast that I do change:
Thy pyramids built up with newer might
To me are nothing novel, nothing strange;
They are but dressings of a former sight.

Our dates are brief, and therefore we admire
What thou dost foist upon us that is old,
And rather make them born to our desire
Than think that we before have heard them told.

Thy registers and thee I both defy,
Not wondering at the present, nor the past,
For thy records, and what we see, doth lie,
Made more or less by thy continual haste.

This I do vow and this shall ever be:
I will be true, despite thy scythe and thee.

=123=
Chớ ngạo mạn, thời gian, ta vẫn thế
Kim tự tháp của ngươi thật buồn cười
Vì thực ra không có gì mới mẻ
Vẻ cổ xưa làm mới lại mà thôi.

Đời ngắn ngủi nên chúng ta thích thú
Những gì cổ xưa ngươi đã đem ra
Và tin tưởng như mình làm ra nó
Nhưng thực ra đã có tự bao giờ.

Cả ghi chép cả ngươi đều vô lý
Cả quá khứ và hiện tại đều sai
Ngươi vẫn thường đem ra câu chuyện cổ
Nhưng chuyện này không tin nổi một ai.

Ta thề rằng chỉ tin điều này thôi
Và không sợ gì lưỡi hái của ngươi.


124
If my dear love were but the child of state,
It might for Fortune's bastard be unfathered,
As subject to Time's love, or to Time's hate,
Weeds among weeds, or flowers with flowers gathered.

No, it was builded far from accident;
It suffers not in smiling pomp, nor falls
Under the blow of thralled discontent,
Whereto th'inviting time our fashion calls;

It fears not Policy, that heretic,
Which works on leases of short-numb'red hours,
But all alone stands hugely politic,
That it nor grows with heat, nor drowns with show'rs.

To this I witness call the fools of time,
Which die for goodness, who have lived for crime.

=124=
Tình của tôi như đứa bé không cha
Hay đứa con của nữ thần may mắn
Bị thời gian coi thường hay quí trọng
Thuộc về loài cỏ dại hoặc loài hoa?

Tình không do điều ngẫu nhiên tạo dựng
Không phô trương, không lộng lẫy tưng bừng
Không ngại gì những mất mát đau thương
Không sợ dù trời mưa hay trời nắng.

Tình của tôi không sợ gì thủ đoạn
Không sợ lời đe dọa hoặc quyền hành
Tình vẫn lớn lên theo cách của mình
Tình của tôi không sợ ngày cuối tận.

Tình là gương cho những kẻ ngu đần
Sống – lầm lỗi, chết – là sự tốt lành.
 



125
Were't aught to me I bore the canopy,
With my extern the outward honouring,
Or laid great bases for eternity,
Which proves more short than waste or ruining?

Have I not seen dwellers on form and favour
Lose all, and more, by paying too much rent,
For compound sweet forgoing simple savour,
Pitiful thrivers, in their gazing spent?

No, let me be obsequious in thy heart,
And take thou my oblation, poor but free,
Which is not mixed with seconds, knows no art,
But mutual render, only me for thee.

Hence, thou suborned informer! a true soul
When most impeached stands least in thy control.

=125=
Tôi đâu cần màn che hay võng lọng
Vì thực ra danh dự chỉ hão huyền
Khi chết rồi thì cần gì vinh quang
Cái mà vốn mong manh, không bền vững.

Chẳng lẽ tôi đã không nhìn bao kẻ
Giành được rồi lại tuột khỏi tầm tay
Trả giá cho danh dự rất đắt đỏ
Không tin hạnh phúc giản dị ở đời.

Nhưng hãy để cho tôi phụng sự anh
Cái tình cảm đơn sơ nhưng tự nguyện
Không phụ thuộc thời gian, không thủ đoạn
Và chỉ xin đổi tình cảm chân thành.

Kẻ cám dỗ càng láu lỉnh tinh ranh
Thì tâm hồn chung thủy càng thủy chung. 


126
О thou my lovely boy, who in thy power
Dost hold Time's fickle glass, his sickle, hour;
Who hast by waning grown, and therein show'st
Thy lovers withering as thy sweet self grow'st;

If Nature, sovereign mistress over wrack,
As thou goest onwards still will pluck thee back,
She keeps thee to this purpose, that her skill
May time disgrace, and wretched minutes kill.

Yet fear her, О thou minion of her pleasure,
She may detain, but not still keep, her treasure!
Her audit, though delayed, answered must be,
And her quietus is to render thee. 

=126=
Ô, bạn tôi, anh giữ trong tay mình
Đồng hồ, búa, lưỡi hái của thời gian
Bao người yêu theo thời gian héo úa
Nhưng vẫn còn đây vẻ đẹp của anh.

Ân huệ này là nhờ mẹ thiên nhiên
Giữ ngày tháng của anh lao vun vút
Người làm vậy để thời gian biết được
Rằng lao nhanh về phía trước không cần.

Nhưng coi chừng, hãy sợ mẹ thiên nhiên
Người không giữ kho báu này mãi mãi
Anh hãy nhớ rằng một lúc nào đấy
Mẹ thiên nhiên sẽ tính sổ với anh.
*Bài này chỉ có 12 dòng.


127
In the old age black was not counted fair,
Or if it were it bore not beauty's name;
But now is black beauty's successive heir,
And beauty slandered with a bastard shame:

For since each hand hath put on Nature's power,
Fairing the foul with art's false borrowed face,
Sweet beauty hath no name, no holy bower,
But is profaned, if not lives in disgrace.

Therefore my mistress' brows are raven black,
Her eyes so suited, and they mourners seem
At such who not born fair no beauty lack,
Sland'ring creation with a false esteem:

Yet so they mourn, becoming of their woe,
That every tongue says beauty should look so.

=127=

Người xưa coi màu đen là màu tối
Phụ nữ thì không được gọi là xinh
Nhưng giờ đây quan niệm này thay đổi
Màu được yêu thích nhất lại màu đen.

Bởi thế mà trên gương mặt của mình
Em trang điểm trái với vẻ tự nhiên
Vẻ đẹp của em vô cùng kỳ quặc
Nhưng mà em coi như vậy là xinh.

Và vì thế, màu của cánh quạ đen
Chính là màu của mái tóc đen huyền
Và tối tăm trong màu tang bất hạnh
Là đôi mắt người yêu dấu của anh.

Đôi mắt em hợp với màu tang tóc
Nên ai cũng cho màu này là đẹp.




128 
How oft when thou, my music, music play'st, 
Upon that blessed wood whose motion sounds 
With thy sweet fingers when thou gently sway'st 
The wiry concord that mine ear confounds, 

Do I envy those jacks that nimble leap, 
To kiss the tender inward of thy hand, 
Whilst my poor lips which should that harvest reap, 
At the wood's boldness by thee blushing stand. 

To be so tickled they would change their state 
And situation with those dancing chips, 
O'er whom thy fingers walk with gentle gait, 
Making dead wood more blest than living lips, 

Since saucy jacks so happy are in this, 
Give them thy fingers, me thy lips to kiss. 

=128=
Đôi khi em là suối nhạc của anh
Bên cây đàn em dạo lên bản nhạc
Khi những ngón tay thành thạo trên đàn
Dòng nhạc chảy làm anh ngây ngất.

Anh ghen với những phím đàn nhảy nhót
Hôn những ngón tay thon thả, dịu dàng
Thương đôi môi này cô đơn rát buốt
Sao chẳng như bàn phím nọ hân hoan.

Và ganh tỵ với bàn phím mất rồi
Đôi môi này giá được thành bàn phím
Để đôi tay khi múa lượn trên môi
Anh sẽ lặng người đi và ngất lịm.

Còn nếu như hạnh phúc đã phân nguồn
Thì cho phím đôi tay, cho anh được môi hôn.
 


129 
Th' expense of spirit in a waste of shame 
Is lust in action, and till action, lust 
Is perjured, murd'rous, bloody full of blame, 
Savage, extreme, rude, cruel, not to trust, 

Enjoyed no sooner but despised straight, 
Past reason hunted, and no sooner had 
Past reason hated as a swallowed bait, 
On purpose laid to make the taker mad. 

Mad in pursuit and in possession so, 
Had, having, and in quest, to have extreme, 
A bliss in proof and proved, a very woe, 
Before a joy proposed behind a dream. 

All this the world well knows yet none knows well, 
To shun the heaven that leads men to this hell. 

=129=
Hồn hoang vắng, chẳng biết gì xấu hổ
Đấy là khi dục vọng đã lên cơn
Vừa gian trá, nhẫn tâm vừa hung dữ
Vừa tinh ma, đê tiện lại điên cuồng.

Được thỏa mãn liền quay ra khinh bỉ
Giành được nhọc nhằn lại chán ngay thôi
Ta săn đuổi ngày đêm không yên nghỉ
Vì đã vô tâm nuốt phải con mồi.

Ta điên cuồng khi chạy theo dục vọng
Để con tim ta hoang vắng, dại khờ
Khi theo đuổi-mừng vui, đạt được rồi-đau đớn
Phút huy hoàng chỉ còn lại trong mơ.

Ai cũng biết nhưng chẳng ai muốn vứt
Chốn bồng lai dẫn ta vào địa ngục. 



130 
My mistress' eyes are nothing like the sun, 
Coral is far more red, than her lips red, 
If snow be white, why then her breasts are dun: 
If hairs be wires, black wires grow on her head: 

I have seen roses damasked, red and white, 
But no such roses see I in her cheeks, 
And in some perfumes is there more delight, 
Than in the breath that from my mistress reeks. 

I love to hear her speak, yet well I know, 
That music hath a far more pleasing sound: 
I grant I never saw a goddess go, 
My mistress when she walks treads on the ground. 

And yet by heaven I think my love as rare, 
As any she belied with false compare. 

=130=
Đôi mắt em không giống với mặt trời
Và đôi môi chẳng như san hô đỏ
Không như tuyết mà nâu sẫm bờ vai
Mái tóc đen cuộn tròn thành từng mớ.

Hoa hồng đỏ trong vườn hay hồng trắng
Không hiện lên trên đôi má của em
Bao hương vị trong cuộc đời cũng chẳng
Bằng hương thơm trong hơi thở êm đềm.

Giọng nói không như suối nhạc đầy vơi
Nhưng cũng đủ để làm tôi ngây ngất
Dù tiên nga không lượn giữa bầu trời
Người tôi yêu vẫn đi trên mặt đất.

Tôi nghĩ rằng người yêu tôi chẳng kém
Với những ai trong so đo khập khễnh. 



131 
Thou art as tyrannous, so as thou art, 
As those whose beauties proudly make them cruel; 
For well thou know'st to my dear doting heart 
Thou art the fairest and most precious jewel. 

Yet in good faith some say that thee behold, 
Thy face hath not the power to make love groan; 
To say they err, I dare not be so bold, 
Although I swear it to my self alone. 

And to be sure that is not false I swear, 
A thousand groans but thinking on thy face, 
One on another's neck do witness bear 
Thy black is fairest in my judgment's place. 

In nothing art thou black save in thy deeds, 
And thence this slander as I think proceeds. 

=131=
Em ngạo mạn, tiếm quyền như bạo chúa
Chẳng khác gì bao người đẹp kiêu sa
Nhưng em biết con tim anh đau khổ
Lại quí em hơn châu báu ngọc ngà.

Thiên hạ cứ cho gương mặt màu bánh mật
Chẳng đáng cho anh khổ đến thế này
Nhưng anh chẳng nghe tin đồn thất thiệt
Chỉ thấy trong lòng đắm đuối, mê say.

Tội lắm con tim ngàn lần nức nở
Trong nước mắt anh nghe thấy lời nguyền
Rằng trên đời chẳng gì yêu hơn thế
Nước da ngăm và mái tóc đen huyền.

Nhưng anh trách gì da tóc màu đen
Anh chỉ buồn vì gian dối tình em. 


132 
Thine eyes I love, and they as pitying me, 
Knowing thy heart torment me with disdain, 
Have put on black, and loving mourners be, 
Looking with pretty ruth upon my pain. 

And truly not the morning sun of heaven 
Better becomes the grey cheeks of the east, 
Nor that full star that ushers in the even 
Doth half that glory to the sober west 

As those two mourning eyes become thy face: 
O let it then as well beseem thy heart 
To mourn for me since mourning doth thee grace, 
And suit thy pity like in every part. 

Then will I swear beauty herself is black, 
And all they foul that thy complexion lack. 

=132=
Yêu đôi mắt của em nhìn thương hại
Như nói rằng trái tim chẳng yêu anh
Mắt như hiểu nỗi lòng anh tê tái
Nên mắt buồn, mắt nhuốm một màu tang

Chẳng giống như ánh bình minh buổi sớm
Khi bầu trời nhuốm màu xám vừng đông
Chẳng giống như ánh hoàng hôn chiều muộn
Phía đằng tây sao nháy giữa tầng không.

Nhưng cứ để nét buồn trên gương mặt
Từ đôi mắt rồi đến trái tim em
Khóc cho anh bằng lòng thương chân thật
Như màu tang đau đớn của mắt nhìn.

Anh sẽ thề sắc đẹp có màu đen
Và chỉ đẹp khi màu tối như em. 



133 
Beshrew that heart that makes my heart to groan 
For that deep wound it gives my friend and me; 
Is't not enough to torture me alone, 
But slave to slavery my sweet'st friend must be? 

Me from my self thy cruel eye hath taken, 
And my next self thou harder hast engrossed, 
Of him, my self, and thee I am forsaken, 
A torment thrice three-fold thus to be crossed: 

Prison my heart in thy steel bosom's ward, 
But then my friend's heart let my poor heart bail, 
Whoe'er keeps me, let my heart be his guard, 
Thou canst not then use rigour in my gaol. 

And yet thou wilt, for I being pent in thee, 
Perforce am thine and all that is in me. 

=133=
Tôi nguyền rủa con tim làm tôi khổ
Hành hạ tôi cùng người bạn của tôi
Đày đọa tôi một mình còn chưa đủ
Lại đày thêm người tôi quý nhất đời.

Tàn nhẫn thay bằng ánh mắt gian dối
Em vô tình lấy mất ba con tim
Mất ý chí tôi mất liền một lối
Đánh mất mình, mất người bạn và em.

Hãy giam tôi giữa con tim bằng thép
Nhưng trả con tim người bạn cho tôi
Tôi sẽ giữ gìn, nâng niu thân thiết
Vì tim tôi em đã lấy mất rồi.

Tôi là người đang bị em giam giữ
Nên của tôi là của em tất cả. 



134 
So now I have confessed that he is thine, 
And I my self am mortgaged to thy will, 
My self I'll forfeit, so that other mine, 
Thou wilt restore to be my comfort still: 

But thou wilt not, nor he will not be free, 
For thou art covetous, and he is kind, 
He learned but surety-like to write for me, 
Under that bond that him as fist doth bind. 

The statute of thy beauty thou wilt take, 
Thou usurer that put'st forth all to use, 
And sue a friend, came debtor for my sake, 
So him I lose through my unkind abuse. 

Him have I lost, thou hast both him and me, 
He pays the whole, and yet am I not free. 

=134=
Tự do này trả về em tất cả
Anh xin làm nô lệ của tình yêu
Nhưng dẫu thế anh xin em hãy thả
Chút tình thôi cho anh được ít nhiều.

Nhưng cả tình và em đều chẳng muốn
Em tham lam em chẳng chịu trao tình
Còn tình yêu lại vô cùng cao thượng
Tình vui lòng chịu tù hãm vì anh.

Tình của anh- với em là con nợ
Em nhẫn tâm bằng sắc đẹp của mình
Truy đuổi tình kẻ cho vay cắt cổ
Anh cô đơn khi đã để mất tình.

Anh đã biến tình anh làm con nợ
Tình trả rồi mà tự do chẳng có.


135 
Whoever hath her wish, thou hast thy will, 
And 'Will' to boot, and 'Will' in over-plus, 
More than enough am I that vex thee still, 
To thy sweet will making addition thus. 

Wilt thou whose will is large and spacious, 
Not once vouchsafe to hide my will in thine? 
Shall will in others seem right gracious, 
And in my will no fair acceptance shine? 

The sea all water, yet receives rain still, 
And in abundance addeth to his store, 
So thou being rich in will add to thy will 
One will of mine to make thy large will more. 

Let no unkind, no fair beseechers kill, 
Think all but one, and me in that one 'Will.' 

=135=
Như người ta em có điều mong muốn
Mong muốn của em là những đam mê
Anh xin được đem điều anh ước muốn
Góp vào em cho anh được theo về.

Điều mong muốn của em cao chót vót
Sao chẳng nhận thêm, dù chỉ một lần?
Chẳng lẽ sao những ước mong dịu ngọt
Của lòng anh không còn chốn nương thân?

Như đại dương bạt ngàn vô khối nước
Biển vẫn chờ vẫn đợi những cơn mưa
Điều mong muốn của em dù chót vót
Thêm của anh vào đấy vẫn không thừa.

Nhớ nghe em đừng làm anh đau khổ
Ước mong này góp lại cùng em đó. 

136 
If thy soul check thee that I come so near, 
Swear to thy blind soul that I was thy 'Will', 
And will thy soul knows is admitted there, 
Thus far for love, my love-suit sweet fulfil. 

'Will', will fulfil the treasure of thy love, 
Ay, fill it full with wills, and my will one, 
In things of great receipt with case we prove, 
Among a number one is reckoned none. 

Then in the number let me pass untold, 
Though in thy store's account I one must be, 
For nothing hold me, so it please thee hold, 
That nothing me, a something sweet to thee. 

Make but my name thy love, and love that still, 
And then thou lov'st me for my name is Will. 

=136=
Ta gần gũi dù lòng em chẳng thiết
Hãy nhủ rằng anh mong muốn, khát khao
Mà ước muốn thì mọi người đều biết
Trong lòng ta ai cũng có như nhau.

Hãy làm đầy trong em kho tình cảm
Một của em và muôn vạn ước mong
Nơi mà ta chẳng bao giờ tính toán
Giữa muôn vàn thì một cũng như không.

Ư thì anh là số không như thế
Nhưng với em anh là một con người
Với thiên hạ chẳng có gì đáng kể
Nhưng với em anh quí nhất trên đời.

Em hãy yêu và yêu tên gọi trước
Rồi yêu anh vì tên anh: mong ước. 



137 
Thou blind fool, Love, what dost thou to mine eyes, 
That they behold and see not what they see? 
They know what beauty is, see where it lies, 
Yet what the best is, take the worst to be. 

If eyes corrupt by over-partial looks, 
Be anchored in the bay where all men ride, 
Why of eyes' falsehood hast thou forged hooks, 
Whereto the judgment of my heart is tied? 

Why should my heart think that a several plot, 
Which my heart knows the wide world's common place? 
Or mine eyes seeing this, say this is not 
To put fair truth upon so foul a face? 

In things right true my heart and eyes have erred, 
And to this false plague are they now transferred. 

=137=
Tình yêu ơi sao mà mi mù quáng
Chẳng nhìn ra dù vẫn thấy rành rành
Nhìn vẻ đẹp ở bên ngoài hào nhoáng
Chẳng nhận ra xấu tốt ở bên trong.

Nếu đôi mắt lừa con tim tội lỗi
Rằng thả neo đậu xuống bến phù vân
Nơi có bao nhiêu con thuyền qua lại
Sao chẳng buông tha dù chỉ một lần?

Con tim ơi sao mà mi nông nỗi
Quán rượu bên đường ngỡ mái ấm tình yêu!
Hay tại đôi mắt nhìn điều giả dối
Lại ngỡ rằng chân thật để lòng xiêu?

Cả đôi mắt, con tim đều lạc lối
Vây quanh tôi giờ chỉ còn bóng tối. 


138 
When my love swears that she is made of truth, 
I do believe her though I know she lies, 
That she might think me some untutored youth, 
Unlearned in the world's false subtleties. 

Thus vainly thinking that she thinks me young, 
Although she knows my days are past the best, 
Simply I credit her false-speaking tongue, 
On both sides thus is simple truth suppressed: 

But wherefore says she not she is unjust? 
And wherefore say not I that I am old? 
O love's best habit is in seeming trust, 
And age in love, loves not to have years told. 

Therefore I lie with her, and she with me, 
And in our faults by lies we flattered be. 

=138=
Khi em thề rằng tình em thần thánh
Thì tôi tin, dù vẫn biết em lừa
Em say sưa với những điều tưởng tượng
Cho rằng tôi là cậu bé ngây thơ.

Tôi cũng muốn cho rằng tôi như vậy
(Dù rằng tôi vẫn biết đấy dối gian)
Thói hư vinh làm cho tôi chẳng thấy
Khi hai người cùng giả dối, khôn ngoan.

Nhưng mà em không nói rằng láu lỉnh
Không nghĩ rằng tôi làm bộ ngây thơ
Vì tình yêu ghét những điều toan tính
Yêu lòng tin dù hư ảo, giả vờ.

Ta dối nhau vì tình ưa nguỵ biện
Vì ta yêu sự vuốt ve, mơn trớn. 



139 
O call not me to justify the wrong, 
That thy unkindness lays upon my heart, 
Wound me not with thine eye but with thy tongue, 
Use power with power, and slay me not by art, 

Tell me thou lov'st elsewhere; but in my sight, 
Dear heart forbear to glance thine eye aside, 
What need'st thou wound with cunning when thy might 
Is more than my o'erpressed defence can bide? 

Let me excuse thee, ah my love well knows, 
Her pretty looks have been mine enemies, 
And therefore from my face she turns my foes, 
That they elsewhere might dart their injuries: 

Yet do not so, but since I am near slain, 
Kill me outright with looks, and rid my pain. 

=139=
Chẳng cần em thanh minh điều gian dối
Vết thương lòng nhức nhối trái tim anh
Chớ bằng mắt mà hãy bằng lời nói
Đừng giết anh bằng mưu chước yêu tinh.

Thà em cứ nói rằng yêu người khác
Nhưng mắt nhìn âu yếm hãy cùng anh
Đừng láu lỉnh ánh mắt đầy quyền lực
Con tim yêu tội nghiệp thế sao đành?

Hay em nghĩ rằng thương hại cho anh
Bởi em biết đôi mắt nhìn tai ác
Nên tốt nhất là ngoảnh mặt cho nhanh
Khi gặp anh em nhìn đi nơi khác?

Chẳng cần đâu, chẳng cần em thương tiếc
Hãy giết anh bằng ánh nhìn oan nghiệt. 



140 
Be wise as thou art cruel, do not press 
My tongue-tied patience with too much disdain: 
Lest sorrow lend me words and words express, 
The manner of my pity-wanting pain. 

If I might teach thee wit better it were, 
Though not to love, yet love to tell me so, 
As testy sick men when their deaths be near, 
No news but health from their physicians know. 

For if I should despair I should grow mad, 
And in my madness might speak ill of thee, 
Now this ill-wresting world is grown so bad, 
Mad slanderers by mad ears believed be. 

That I may not be so, nor thou belied, 
Bear thine eyes straight, though thy proud heart go wide. 

=140=
Dù tàn nhẫn cũng biết điều em nhé
Đừng nói ra nỗi khổ của lòng anh
Để nỗi đau không tìm cách kể lể
Vì tiếc thương cho đau đớn của mình.

Dù chẳng yêu em cứ làm ra vẻ
Cứ dối lòng, cứ làm bộ yêu thương
Như con bệnh đã vô phương cứu chữa
Ông thầy thuốc từ bi vẫn nói: bình thường.

Anh đang sống với cuồng điên khủng khiếp
Bao nhiêu điều nói xấu muốn tuôn ra
Trong thế giới khổ đau em có biết
Người ta tin điều vu khống, gièm pha.

Đừng nói xấu, đừng thù nhau em nhé
Dù chẳng yêu em cứ làm ra vẻ. 


141 
In faith I do not love thee with mine eyes, 
For they in thee a thousand errors note, 
But 'tis my heart that loves what they despise, 
Who in despite of view is pleased to dote. 

Nor are mine cars with thy tongue's tune delighted, 
Nor tender feeling to base touches prone, 
Nor taste, nor smell, desire to be invited 
To any sensual feast with thee alone: 

But my five wits, nor my five senses can 
Dissuade one foolish heart from serving thee, 
Who leaves unswayed the likeness of a man, 
Thy proud heart's slave and vassal wretch to be: 

Only my plague thus far I count my gain, 
That she that makes me sin, awards me pain. 

=141=
Anh chẳng hề yêu em bằng đôi mắt
Vì đôi mắt nhìn thấy hết lỗi lầm
Mà chỉ khổ cho trái tim chân thật
Chẳng thấy gì nên cứ thế lặng im.

Đôi tai anh chẳng hề mê giọng nói,
Bàn tay xinh và cả ánh mắt nhìn
Cùng vị ngọt, hương thơm không mời nổi
Chỉ một điều khờ dại bởi con tim.

Năm giác quan hợp lại cùng lý trí
Chẳng khuyên nổi con tim chưa hết dại khờ:
Hãy từ bỏ cuộc đời làm nô lệ
Cho con tim ngạo mạn để tự do.

Duy chỉ có một điều còn an ủi:
Em vừa quan toà, vừa người có tội.
 


142 
Love is my sin, and thy dear virtue hate, 
Hate of my sin, grounded on sinful loving, 
O but with mine, compare thou thine own state, 
And thou shalt find it merits not reproving, 

Or if it do, not from those lips of thine, 
That have profaned their scarlet ornaments, 
And sealed false bonds of love as oft as mine, 
Robbed others' beds' revenues of their rents. 

Be it lawful I love thee as thou lov'st those, 
Whom thine eyes woo as mine importune thee, 
Root pity in thy heart that when it grows, 
Thy pity may deserve to pitied be. 

If thou dost seek to have what thou dost hide, 
By self-example mayst thou be denied. 

=142=
Em trách anh vì tình anh tội lỗi
Chẳng bỏ qua cho anh những lỗi lầm
Nhưng em thử đem hai người so lại
Để biết rằng ai có lỗi nhiều hơn.

Hay là em cứ nghĩ rằng chẳng phải
Đôi môi xinh kia từng mạt sát anh
Cái vẻ đẹp trên đôi môi đã đổi
Thành dối gian chẳng một chút chân thành.

Nếu tình anh với em là tội lỗi
Vì anh yêu mà em chẳng yêu anh
Hãy tìm lấy trong em lòng thương hại
Cho người ta cũng thương lại chân thành.

Còn nếu em mặc người khác van nài
Thì đừng mong lòng thương hại của ai. 


143 
Lo, as a careful huswife runs to catch, 
One of her feathered creatures broke away, 
Sets down her babe and makes all swift dispatch 
In pursuit of the thing she would have stay: 

Whilst her neglected child holds her in chase, 
Cries to catch her whose busy care is bent, 
To follow that which flies before her face: 
Not prizing her poor infant's discontent; 

So run'st thou after that which flies from thee, 
Whilst I thy babe chase thee afar behind, 
But if thou catch thy hope turn back to me: 
And play the mother's part, kiss me, be kind. 

So will I pray that thou mayst have thy Will, 
If thou turn back and my loud crying still. 

=143=
Hãy nhìn con gà mái
Săn đuổi chú gà choai
Đuổi say sưa, mê mải
Bỏ con chẳng đoái hoài.

Con sợ hãi chạy theo
Khóc oà lên gọi mẹ
Mẹ đang bận đuổi theo
Bỏ mặc con nức nở.

Với anh, em cũng vậy
Anh như đứa con thơ
Mẹ yêu đi đâu đấy
Con cứ đợi, cứ chờ.

Van em hãy quay về
Với nghĩa cũ, tình xưa.


144 
Two loves I have of comfort and despair, 
Which like two spirits do suggest me still, 
The better angel is a man right fair: 
The worser spirit a woman coloured ill. 

To win me soon to hell my female evil, 
Tempteth my better angel from my side, 
And would corrupt my saint to be a devil: 
Wooing his purity with her foul pride. 

And whether that my angel be turned fiend, 
Suspect I may, yet not directly tell, 
But being both from me both to each friend, 
I guess one angel in another's hell. 

Yet this shall I ne'er know but live in doubt, 
Till my bad angel fire my good one out. 

=144=
Hai tình yêu ngọt ngào và cay đắng
Hai tâm hồn cùng tồn tại kề bên:
Người đàn ông thiên thần đôi mắt sáng
Người đàn bà tăm tối ánh mắt nhìn.

Muốn đẩy tôi thật nhanh vào địa ngục
Người đàn bà đi quyến rũ thiên thần
Đem sắc đẹp của mình ra mê hoặc
Biến thiên thần trở thành quỷ sa tăng.

Trở thành quỷ hay không tôi chẳng biết
Nhưng cùng tôi chẳng quay lại nữa rồi
Thiên thần tôi giờ trở nên thân thiết
Với đàn bà nơi địa ngục xa xôi.

Sẽ ra sao- tôi chỉ biết một khi
Thiên thần tôi từ nơi ấy quay về. 


145 
Those lips that Love's own hand did make, 
Breathed forth the sound that said 'I hate', 
To me that languished for her sake: 
But when she saw my woeful state, 

Straight in her heart did mercy come, 
Chiding that tongue that ever sweet, 
Was used in giving gentle doom: 
And taught it thus anew to greet: 

'I hate' she altered with an end, 
That followed it as gentle day, 
Doth follow night who like a fiend 
From heaven to hell is flown away. 

'I hate', from hate away she threw, 
And saved my life saying 'not you'. 

=145=
Từ đôi môi ngọt ngào
Em thốt lên “ tôi giận”
Anh thấy người bủn rủn
Trong lòng đang u sầu.

Thấy tội nghiệp anh chăng
Em dịu dàng mím miệng
Anh nghe thấy lòng thương
Đang dần dà lên tiếng.

“Tôi giận” nhưng lời em
Như tiếng lòng thổn thức
Như ngày xua bóng đêm
Từ trời xanh vào ngục.

“Tôi giận” mà nghe dường
Như em nói rằng “thương”.
 


146
Poor soul, the centre of my sinful earth,
[.....] these rebel powers that thee array?
Why dost thou pine within, and suffer dearth,
Painting thy outward walls so costly gay?

Why so large cost, having so short a lease,
Dost thou upon thy fading mansion spend?
Shall worms, inheritors of this excess,
Eat up thy charge? is this thy body's end?

Then soul, live thou upon thy servant's loss,
And let that pine to aggravate thy store;
Buy terms divine in selling hours of dross;
Within be fed, without be rich no more:

So shalt thou feed on Death, that feeds on men,
And, Death once dead, there's no more dying then.

=146=
Hồn của tôi là lòng đất tội lỗi
Ưa nghe theo những ý nghĩ ngang tàng
Khi ngôi nhà bên trong đầy bối rối
Thì bên ngoài đem che chắn quét sơn.

Trả giá cao cho hợp đồng ngắn ngủi
Khi điểm tô cho thân xác vô thường
Có một điều mà không ai tránh khỏi
Là cuối cùng rồi cũng hiến cho giun.

Thì hãy biết sống sao cho xứng với
Biết cách làm giàu cho mỗi hồn thôi
Mua cái linh thiêng, bán phần cát bụi
Giàu bên trong, dù rách rưới bên ngoài.

Khinh cái chết trong cuộc đời cát bụi
Cái chết chết đi, linh hồn còn mãi.



147 
My love is as a fever longing still, 
For that which longer nurseth the disease, 
Feeding on that which doth preserve the ill, 
Th' uncertain sickly appetite to please: 

My reason the physician to my love, 
Angry that his prescriptions are not kept 
Hath left me, and I desperate now approve, 
Desire is death, which physic did except. 

Past cure I am, now reason is past care, 
And frantic-mad with evermore unrest, 
My thoughts and my discourse as mad men's are, 
At random from the truth vainly expressed. 

For I have sworn thee fair, and thought thee bright, 
Who art as black as hell, as dark as night. 

=147=
Lòng tôi đau tình đang lên cơn sốt
Tình khát khao niềm đau khổ ngày qua
Tình đòi hỏi những điều tôi đau xót
Để hả hê với mong ước dại khờ

Lý trí tôi định làm ông bác sĩ
Chữa cơn đau bằng phương thuốc nhiệm màu
Tình nổi giận làm ông ta phật ý
Bỏ ra đi bằng những cái lắc đầu.

Trong đầu tôi giờ chẳng còn lý trí
Chỉ cuồng điên đang ngự trị trong hồn
Cả lời nói, nghĩ suy đều nhảm nhí
Chẳng mong tìm về sự thật, trí khôn.

Lạy trời cho tư duy để còn nhận dạng:
Ngày với đêm, bóng tối và ánh sáng. 



148 
O me! what eyes hath love put in my head, 
Which have no correspondence with true sight, 
Or if they have, where is my judgment fled, 
That censures falsely what they see aright? 

If that be fair whereon my false eyes dote, 
What means the world to say it is not so? 
If it be not, then love doth well denote, 
Love's eye is not so true as all men's: no, 

How can it? O how can love's eye be true, 
That is so vexed with watching and with tears? 
No marvel then though I mistake my view, 
The sun it self sees not, till heaven clears. 

O cunning love, with tears thou keep'st me blind, 
Lest eyes well-seeing thy foul faults should find. 

=148=
Đau đớn quá! Tình yêu làm thay đổi
Chẳng biết đúng sai chỉ tại mắt nhìn
Hay lý trí khi yêu thường bối rối
Nên không nhìn ra mọi vật xung quanh?

Những gì đẹp là những gì vui mắt
Liệu còn ai với tôi chẳng đồng tình
Và nếu không thì hãy nhìn đôi mắt
Mắt tình yêu nhìn mù quáng, chênh vênh.

Có lẽ thế. Mắt yêu nhìn diệu vợi
Vì mắt yêu che bởi suối lệ nhoà
Nên ngay cả mặt trời kia cũng tối
Khi bầu trời che kín bởi mây mưa.

Tình ranh ma lấy nước mắt làm mưa
Để xua đi trong mắt đầy tội lỗi. 


149 
Canst thou, O cruel, say I love thee not, 
When I against my self with thee partake? 
Do I not think on thee when I forgot 
Am of my self, all-tyrant, for thy sake? 

Who hateth thee that I do call my friend, 
On whom frown'st thou that I do fawn upon, 
Nay if thou lour'st on me do I not spend 
Revenge upon my self with present moan? 

What merit do I in my self respect, 
That is so proud thy service to despise, 
When all my best doth worship thy defect, 
Commanded by the motion of thine eyes? 

But love hate on for now I know thy mind, 
Those that can see thou lov'st, and I am blind. 

=149=
Sao lại nói rằng anh chẳng yêu em
Em vẫn biết anh vì em đấy chứ?
Khi bên em anh quên đi tất cả
Anh quên mình chỉ nhớ mỗi mình em.

Chẳng lẽ anh thương những người em ghét?
Chẳng lẽ anh yêu những kẻ em thù?
Cả những khi nhỡ làm em cáu tiết
Vẫn nhủ lòng anh trách tại mình ngu.

Anh định tìm can đảm và danh dự
Để thôi đi sự thờ phụng mê say
Nhưng lại nghĩ khi trên đời còn có
Ánh mắt nhìn cho anh được cuồng say.

Trong thù hận của em anh biết rõ:
Anh mịt mù mà em yêu sáng tỏ.
 


150
О, from what pow'r hast thou this pow'rful might
With insufficiency my heart to sway,
To make me give the lie to my true sight,
And swear that brightness doth not grace the day?

Whence hast thou this becoming of things ill,
That in the very refuse of thy deeds
There is such strength and warrantise of skill
That, in my mind, thy worst all best exceeds?

Who taught thee how to make me love thee more
The more I hear and see just cause of hate?
O, though I love what others do abhor,
With others thou shouldst not abhor my state.

If thy unworthiness raised love in me,
More worthy I to be beloved of thee.

=150=
Sức mạnh của em ở đâu ra vậy
Mà làm cho chao đảo trái tim này
Buộc từ chối mắt nhìn và nói dối
Rằng ánh sáng không trang điểm cho ngày?

Từ đâu mà em như người phù phép
Làm thành hay cái điều dở của mình
Để ngay cả những gì tồi tệ nhất
Đều trở thành tốt đẹp ở trong anh?

Ai giúp em buộc anh yêu tha thiết
Bởi anh không yêu mà vốn coi khinh?
Dù anh yêu cái người ta vẫn ghét
Nhưng em cùng với họ chớ khinh anh.

Khi yêu cả điều lầm lỗi của em
Thì khi đó anh càng xứng với tình.


151
Love is too young to know what conscience is,
Yet who knows not conscience is born of love?
Then, gentle cheater, urge not my amiss,
Lest guilty of my faults thy sweet self prove.

For, thou betraying me, I do betray
My nobler part to my gross body's treason:
My soul doth tell my body that he may
Triumph in love; flesh stays no farther reason;

But rising at thy name doth point out thee
As his triumphant prize. Proud of this pride,
He is contented thy poor drudge to be,
To stand in thy affairs, fall by thy side.

No want of conscience hold it that I call
Her 'love' for whose dear love I rise and fall.

=151=
Tình quá trẻ để nhận biết lương tâm
Mặc dù lương tâm sinh ra từ đó
Nên em đừng trách rằng anh lầm lỡ
Để không rơi vào khó xử như anh.

Khi em phản bội anh, anh cho phép
Sự tốt đẹp thay đổi ở trong mình
Linh hồn lao vào rủ rê xác thịt
Và cuối cùng xác thịt đã thành công.

Nghe tên em nó đứng lên kiêu hãnh
Và đã thi hành quyền lực của mình
Để sau đó khiêm tốn và ngoan ngoãn
Đứng bên em rồi ngã xuống bên em.

Đừng nghĩ rằng anh không biết lương tâm
Khi bay lên rồi rơi xuống trong tình.

152 
In loving thee thou know'st I am forsworn, 
But thou art twice forsworn to me love swearing, 
In act thy bed-vow broke and new faith torn, 
In vowing new hate after new love bearing: 

But why of two oaths' breach do I accuse thee, 
When I break twenty? I am perjured most, 
For all my vows are oaths but to misuse thee: 
And all my honest faith in thee is lost. 

For I have sworn deep oaths of thy deep kindness: 
Oaths of thy love, thy truth, thy constancy, 
And to enlighten thee gave eyes to blindness, 
Or made them swear against the thing they see. 

For I have sworn thee fair: more perjured I, 
To swear against the truth so foul a be. 

=152=
Anh vẫn biết rằng tình anh lầm lỗi
Nhưng yêu anh em có tội hơn nhiều
Trong tình nghĩa vợ chồng em gian dối
Đem hận thù em đổi lấy tình yêu.

Nhưng mà anh trách gì em gian dối
Khi đi trách em thay đổi hai lần
Anh tự thú rằng anh còn có lỗi
Chẳng hai lần mà gấp chục lần hơn.

Đã bao lần với em anh đã nói
Rằng tình em mãi say đắm, ngọt ngào
Qua ánh mắt ta nhìn nhau đắm đuối
Thì lỗi lầm anh còn thấy làm sao?

Anh thề rằng em xinh đẹp biết bao
Nhưng thực ra là lòng anh nói dối.
 


153 
Cupid laid by his brand and fell asleep, 
A maid of Dian's this advantage found, 
And his love-kindling fire did quickly steep 
In a cold valley-fountain of that ground: 

Which borrowed from this holy fire of Love, 
A dateless lively heat still to endure, 
And grew a seeting bath which yet men prove, 
Against strange maladies a sovereign cure: 

But at my mistress' eye Love's brand new-fired, 
The boy for trial needs would touch my breast, 
I sick withal the help of bath desired, 
And thither hied a sad distempered guest. 

But found no cure, the bath for my help lies, 
Where Cupid got new fire; my mistress' eyes. 

=153=
Thần ái tình ngủ say quên ngọn đuốc
Để tiên cô tinh nghịch đến gần kề
Đem ngọn lửa dìm nhanh vào dòng nước
Mạch nước nguồn lạnh lẽo chốn sơn khê.

Từ ngọn lửa của tình yêu thần thánh
Mạch nước kia thành suối nóng muôn đời
Khắp thiên hạ người đồn nhau tìm đến
Nước trở nên thuốc chữa bệnh cho người.

Nhưng với tôi thần tình yêu – Cupid.
Ngọn lửa từ đôi mắt của người yêu
Thần đem thắp vào con tim tội nghiệp
Tôi tìm về dòng nước chữa cơn đau.

Nhưng thuốc chữa lành bệnh tôi lại ở
Trong đôi mắt thần ái tình thắp lửa.
 


154 
The little Love-god lying once asleep, 
Laid by his side his heart-inflaming brand, 
Whilst many nymphs that vowed chaste life to keep, 
Came tripping by, but in her maiden hand, 

The fairest votary took up that fire, 
Which many legions of true hearts had warmed, 
And so the general of hot desire, 
Was sleeping by a virgin hand disarmed. 

This brand she quenched in a cool well by, 
Which from Love's fire took heat perpetual, 
Growing a bath and healthful remedy, 
For men discased, but I my mistress' thrall, 

Came there for cure and this by that I prove, 
Love's fire heats water, water cools not love. 

=154=
Có một dạo thần tình yêu mê ngủ
Đã bỏ quên ngọn đuốc của ái tình
Những tiên nữ như bầy chim quần tụ
Sát đến gần ngọn lửa cánh tay xinh.

Người đẹp nhất đưa tay cầm ngọn đuốc
Đã từng gây bao đau khổ cho mình
Đem khát khao nàng dìm vào dòng nước
Ngọn lửa tình dập bởi cánh tay xinh.

Và dòng nước đã trở thành nóng bỏng
Đã chữa cho khỏi bệnh biết bao người
Tôi đã đến dòng nước này để tắm
Nhưng vì yêu nên không khỏi nữa rồi.

Tình làm cho dòng nước nóng lên nhiều
Nhưng nước không làm nguội được tình yêu.
 


@@@@@@@@




Lord George Gordon Noel Byron thường được gọi ngắn gọn là Lord Byron (22 /1/1788 – 19/4/1824) – nhà thơ lãng mạn Anh, một trong những nhà thơ lớn nhất thế kỷ XIX. Byron đã tham gia vào chiến tranh giành độc lập Hy Lạp, và do đó, được coi là một anh hùng dân tộc của Hy Lạp.

Tiểu sử:
Byron sinh ở London, trong một gia đình quí tộc đã sa sút. Học ở Harrow School và Đại học Cambridge. Năm 1807 in tập Hours of Idleness (Những giờ giải trí), năm 1809 in trường ca English Bards and Scotch Reviewers (Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland) phê phán những nhà lãng mạn quá khích. Từ năm 1809 là thành viên nghị viện Anh, sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Năm 1812 in 2 chương đầu của Childe Harold's Pilgrimage (Chuyến hành hương của Childe Harold) kể lại chuyến đi Nam Âu và Cận Đông. Nhân vật của trường ca là chàng trai trẻ thất vọng trước cuộc sống thiếu lý tưởng và tự do. Năm 1812, phát biểu trước nghị viện, Byron tố cáo tầng lớp thống trị ở Anh và đòi hủy bỏ luật tử hình những người công nhân phá máy.
Trong những tác phẩm Kẻ vô thần (The Giaour, 1813); Nàng dâu của Abydos (The Bride of Abydos, 1813); Cướp biển (The Corsair, 1814); Lara (Lara, 1814); Cuộc bao vây Corinth (The Siege of Corinth, 1816) Byron kêu gọi đấu tranh giành tự do. Năm 1816 ông đi sang Thụy Sĩ, gặp Shelley, hai người trở thành bạn của nhau. Những năm 1817-1820 Byron sống ở Venice, cảm thông với nỗi khổ của người Ý trước ách cai trị của người Áo. Thời kỳ này ông viết một số trường ca và 2 chương tiếp theo của Childe Harold's Pilgrimage. Những năm 1818-1819 ông viết trường ca Đông Gioăng (Don Juan) gồm 16 chương và chương 17 viết dở. Năm 1823 ông sang Hy Lạp để tham gia đấu tranh giải phóng Hy Lạp khỏi ách cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ nhưng công việc đang dở dang thì ông bị sốt và mất ngày 19 tháng 4 năm 1824 ở Missolonghi.
Lòng say mê mãnh liệt, tính trữ tình sâu sắc, sự bạo dạn về ý tưởng và vẻ sống động của những hình tượng khiến Byron trở thành một trong những nhà thơ lớn và nổi tiếng nhất ở châu Âu thế kỷ XIX. Tác phẩm của Byron mở ra những khả năng mới của chủ nghĩa lãng mạn như một phương pháp nghệ thuật. Byron đưa vào thơ ca những nhân vật mới, làm giàu hình thức và thể loại thơ ca. Ông có sự ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca thế giới thế kỷ XIX, sinh ra một trường phái thơ ca ở nhiều quốc gia khác nhau với tên gọi: chủ nghĩa Byron.

Tác phẩm:
Những giờ nhàn rỗi (Hours of Idleness,1806) 
Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland (English Bards and Scotch Reviewers, 1809) 
Chuyến hành hương của Childe Harold (Childe Harold's Pilgrimage, 1812 – 1818) 
Kẻ vô thần  (The Giaour, 1813) 
Nàng dâu của Abydos (The Bride of Abydos, 1813) 
Cướp biển (The Corsair, 1814) 
Lara (Lara, 1814)  
Những giai điệu Do Thái ( Hebrew Melodies (1815) 
Cuộc bao vây Corinth (The Siege of Corinth, 1816) 
Parisina (Parisina, 1816) 
Người tù Chillon (The Prisoner Of Chillon, 1816) 
Giấc mơ (The Dream, 1816) 
Thần Promethus (Prometheus, 1816) 
Bóng tối (Darkness, 1816) 
Manfred (Manfred, 1817) 
Lời than thở của Tasso (The Lament of Tasso, 1817) 
Beppo (Beppo, 1818) 
Mazeppa (Mazeppa, 1819) 
Lời tiên tri của Dante (The Prophecy of Dante, 1819) 
Marino Faliero (Marino Faliero, 1820) 
Sardanapalus (Sardanapalus, 1821) 
Hai cha con Foscari (The Two Foscari, 1821) 
Ca-in (Cain, 1821) 
Bóng ma ngày phán xét (The Vision of Judgement, 1821) 
Trời và đất (Heaven and Earth, 1821) 
Werner (Werner, 1822) 
Quái thai biến dạng (The Deformed Transformed, 1822) 
Kỷ đồ đồng (The Age of Bronze, 1823) 
Hòn đảo (The Island, 1823) 
Đông Gioăng (Don Juan (1819 – 1824)



FARE THEE WELL

Than ôi! họ đã từng là bạn của nhau
Nhưng ác nhân đầu độc lòng chung thủy
Dù sự thật vẫn sống ở trên cao
Nhưng tuổi thanh xuân phí hoài, vô nghĩa
Và cuồng điên ngự trị ở trong đầu
Và cuộc đời từ đây chia hai ngả.
***
Không bao giờ họ còn gặp lại nhau
Để con tim lại mừng vui, hớn hở
Biệt ly này có ai muốn gì đâu
Như vách đá bị chia làm hai nửa.
Biển buồn bã giữa con sóng bạc đầu
Không sấm chớp, oi nồng hay băng giá
Tình đã chết ở trong lòng, tuy thế
Hai người đã từng một thuở của nhau.
Coleridge. Christabel. 

Vĩnh biệt em! và nếu là mãi mãi
Thì đến muôn đời vĩnh biệt em
Lòng hận thù anh không còn giữ lại
Và em nhé, hãy quên.

Có lẽ nào trên ngực của anh
Nơi mái đầu của em từng cúi xuống
Nơi đã từng say sưa trong giấc mộng
Em còn nhớ chăng giấc mộng của mình?

Và với anh, có lẽ nào em nỡ
Khi đã nhìn xuyên suốt trái tim anh
Rồi sau đấy em dễ dàng chối bỏ
Trái tim anh em nỡ coi thường.

Có thể là thiên hạ sẽ khen em
Nhưng là điều tai họa, em có biết
Rằng khi nhận về lời khen cho mình
Em mang bất hạnh đến cho người khác.

Ừ thì anh lỗi lầm, anh vẫn biết
Anh vẫn mong chuộc lại lỗi lầm
Nhưng tại sao bàn tay, em nỡ giết
Bàn tay từng âu yếm cùng anh?

Và dù sao, em đừng tự dối mình
Ngọn lửa tình đâu đã tàn phai hẳn
Dù bây giờ đã ly biệt con tim
Tình đau đớn trong tim này vẫn sống.

Tình của em trong tim anh vẫn giữ
Đớn đau này rỉ máu trái tim anh
Một ý nghĩ vẫn làm anh đau khổ
Rằng sẽ không còn gặp nữa chúng mình.

Em có nghe tiếng nức nở của ai
Như tiếng khóc lạc loài trên xác chết
Ta vẫn sống, nhưng mỗi sáng hai người
Đều goá bụa trên giường khi tỉnh giấc.

Và khi em âu yếm cùng con gái
Dạy con mình cất tiếng gọi “Cha ơi!”
Thì với con của mình, em có nói:
Cha của con vẫn sống ở trên đời?

Khi bàn tay đứa con quàng âu yếm
Khi hôn môi con em có biết rằng
Anh vẫn mong và vẫn luôn cầu nguyện
Vẫn nghĩ về em như thuở yêu anh.

Nếu em thấy con gái mình rất giống
Với kẻ mà xưa em nỡ phụ tình
Nếu bỗng nhiên con tim em rung động
Nhịp đập chân thành em hãy hướng về anh.

Lỗi lầm anh, có thể là em biết
Vẻ điên cuồng em chẳng biết được đâu
Niềm hy vọng của anh còn tha thiết
Như bên tai còn vọng mãi u sầu.

Và tâm hồn rất kiêu hãnh của anh
Trước tình em cúi xuống
Hồn anh đuổi theo em
Từ giã anh đi về nơi xa vắng.

Hết thật rồi, tất cả lời trống rỗng
Càng phí hoài hơn thế những lời anh
Nhưng ý nghĩ không thể nào ngăn cản
ý nghĩ khát khao bay đến với tình.

Vĩnh biệt em! giờ tình yêu đã hết
Mất em rồi, tình yêu đã xa xôi
Không bao giờ tim anh còn được chết
Bởi từ đây con tim đã chết rồi.

Fare Thee Well


“Alas! they had been friends in youth:

But whispering tongues can poison truth;
And constancy lives in realms above;
And life is thorny; and youth is vain;
And to be wroth with one we love,
Doth work like madness in the brain;
________
But never either found another
To free the hollow heart from paining –
They stood aloof, the scars remaining.
Like cliffs which had been rent asunder;
A dreary sea now flows between,
But neither heat, nor frost, nor thunder,
Shall wholly do away, I ween,
The marks of that which once hath been.”
Coleridge, Christabel

Fare thee well! and if for ever,

Still for ever, fare thee well:
Even though unforgiving, never
‘Gainst thee shall my heart rebel.

Would that breast were bared before thee

Where thy head so oft hath lain,
While that placid sleep came o’er thee
Which thou ne’er canst know again:

Would that breast, by thee glanced over,

Every inmost thought could show!
Then thou wouldst at last discover
‘Twas not well to spurn it so.

Though the world for this commend thee –

Though it smile upon the blow,
Even its praise must offend thee,
Founded on another’s woe:

Though my many faults defaced me,

Could no other arm be found,
Than the one which once embraced me,
To inflict a cureless wound?

Yet, oh yet, thyself deceive not;

Love may sink by slow decay,
But by sudden wrench, believe not
Hearts can thus be torn away:

Still thine own its life retaineth,

Still must mine, though bleeding, beat;
And the undying thought which paineth
Is – that we no more may meet.

These are words of deeper sorrow

Than the wail above the dead;
Both shall live, but every morrow
Wake us from a widowed bed.

And when thou wouldst solace gather,

When our child’s first accents flow,
Wilt thou teach her to say “Father!”
Though his care she must forego?

When her little hands shall press thee,

When her lip to thine is pressed,
Think of him whose prayer shall bless thee,
Think of him thy love had blessed!

Should her lineaments resemble

Those thou never more may’st see,
Then thy heart will softly tremble
With a pulse yet true to me.

All my faults perchance thou knowest,

All my madness none can know;
All my hopes, where’er thou goest,
Wither, yet with thee they go.

Every feeling hath been shaken;

Pride, which not a world could bow,
Bows to thee – by thee forsaken,
Even my soul forsakes me now:

But ’tis done – all words are idle –

Words from me are vainer still;
But the thoughts we cannot bridle
Force their way without the will.

Fare thee well! thus disunited,

Torn from every nearer tie.
Seared in heart, and lone, and blighted,
More than this I scarce can die.



CHẲNG CÒN NHỮNG ĐÊM XƯA

Thôi đêm này chẳng cùng em sánh bước
Như những đêm xưa từng bước chung đôi
Dù tình yêu vẫn dồn lên trong ngực
Và ánh trăng vẫn sáng ở trên trời.

Như lưỡi dao đã mòn vì bao vỏ
Tâm hồn đau vì đã lắm bồi hồi
Giờ con tim đang rất cần hơi thở
Và tình yêu đang muốn được nghỉ ngơi.

Dù đêm nay vẫn dịu hiền như trước
Đêm dễ thương, âu yếm của hai người
Nhưng anh và em chẳng còn sánh bước
Như những đêm xưa dưới ánh trăng soi.

So We'll Go No More a Roving

So, we'll go no more a roving
   So late into the night,
Though the heart be still as loving,
   And the moon be still as bright.

For the sword outwears its sheath,
   And the soul wears out the breast,
And the heart must pause to breathe,
   And love itself have rest.

Though the night was made for loving,
   And the day returns too soon,
Yet we'll go no more a roving
   By the light of the moon.


KHI HAI TA CHIA TAY

Khi hai ta chia tay
Trong nước mắt, im lặng
Nửa con tim đau đớn
Ly biệt tháng năm này.

Gò má em tái nhợt
Bờ môi em lạnh lùng
Như đã từng báo trước
Giờ ly biệt buồn thương.

Giọt sương buổi sớm mai
Tinh sương và giá lạnh
Giọt sương rơi lên trán
Điềm báo phút giây này.

Lời nguyền không còn nữa
Bản án của tin đồn
Anh nghe và sẽ cùng
Sẻ chia điều xấu hổ.

Giữa thiên hạ tên em
Làm người ta lo lắng
Chẳng lẽ anh và em
Những người cùng huyết thống?

Gọi em không phiền muộn
Người ta vẫn dễ dàng
Không biết rằng anh vẫn
Biết em, như biết mình.

Từ lâu trong bí ẩn
Tình yêu của chúng mình
Anh bây giờ giữ kín
Bí ẩn nỗi buồn riêng.

Nếu như còn gặp mặt
Sau ly biệt nhiều năm
Trong lặng im, nước mắt
Sẽ gặp lại cùng em.

When We Two Parted

When we two parted
   In silence and tears,
Half broken-hearted
   To sever for years,
Pale grew thy cheek and cold,
   Colder thy kiss;
Truly that hour foretold
   Sorrow to this.

The dew of the morning
   Sunk chill on my brow--
It felt like the warning
   Of what I feel now.
Thy vows are all broken,
   And light is thy fame;
I hear thy name spoken,
   And share in its shame.

They name thee before me,
   A knell to mine ear;
A shudder comes o’er me--
   Why wert thou so dear?
They know not I knew thee,
   Who knew thee too well--
Long, long shall I rue thee,
   Too deeply to tell.

In secret we met--
   In silence I grieve,
That thy heart could forget,
   Thy spirit deceive.
If I should meet thee
   After long years,
How should I greet thee?--
   With silence and tears.


CÔ GÁI ATHENS

1
Cô gái Athens, trước lúc chia tay
Em trả lại con tim cho tôi nhé
Hay là con tim của tôi từ đó
Đã cùng em, ở lại đến muôn đời
Lời thề hẹn của tôi, em hãy nhớ:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!*

2
Ngọn gió biển Aegea ve vuốt
Lên mái tóc, lên đôi má em tôi
Ngọn gió hôn lên đôi mắt rạng ngời
Ơi đôi mắt của em ngời vẻ đẹp
Xin hãy nhớ lời hẹn thề da diết:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!

3
Tôi đã từng hôn lên đôi môi đó
Bằng cả tình yêu tuổi trẻ của tôi
Và những giọng của loài hoa thầm thĩ
Còn nói nhiều hơn tất cả những lời
Tôi thề hẹn với niềm vui, nỗi khổ:
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!

4
Cô gái Athens, khi tôi đi rồi
Em hãy nhớ về tôi, khi vắng vẻ
Giờ tôi đến Istambol xa lạ
Nhưng Athens sống mãi giữa lòng này
Và con tim không bao giờ từ giã
Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!
_____________________

*Câu này trong nguyên bản tiếng Anh viết bằng tiếng Hy Lạp, và đây là những lời chú thích của Byron: “Lời thổ lộ tình yêu bằng tiếng Hy Lạp. Nếu tôi dịch nó thì sẽ làm mất lòng những người đàn ông cho rằng đó là sự thiếu lòng tin vào khả năng tự dịch của họ, mà nếu không dịch thì sẽ làm phật ý những chị em phụ nữ. Tôi sợ sự hiểu lầm của phụ nữ, và tôi quyết định dịch, xin các học giả hãy độ lượng tha thứ. Ζωή μουσᾶς ἀγαπῶ (Zoë mou sas agapo) nghĩa là: “Tôi yêu em, em là cuộc đời tôi!”(My Life, I Love You!), câu này nghe rất dễ thương bằng tất cả các thứ tiếng.  

Maid of Athens, ere we part

1
Maid of Athens, ere we part,
Give, oh give me back my heart!
Or, since that has left my breast,
Keep it now, and take the rest!
Hear my vow before I go,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
  
2
By those tresses unconfined,
Wooed by each Ægean wind;
By those lids whose jetty fringe
Kiss thy soft cheeks' blooming tinge
By those wild eyes like the roe,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
  
3
By that lip I long to taste;
By that zone-encircled waist;
By all the token-flowers that tell
What words can never speak so well;
By love's alternate joy and woe,
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.
  
4
Maid of Athens! I am gone:
Think of me, sweet! when alone.
Though I fly to Istambol,
Athens holds my heart and soul:
Can I cease to love thee? No!
Ζωή μου, σᾶς ἀγαπῶ.



MÔ PHỎNG THƠ CATULLUS – GỬI ELLEN

Muốn hôn đôi mắt bừng như lửa
Dìm nỗi đam mê cả triệu lần
Để trên bờ môi niềm hoan hỉ
Bằng trăm năm trong một nụ hôn. 

Tâm hồn của anh đang khao khát
Chỉ muốn ôm em để hôn em
Chẳng có điều gì ngăn cản được
Anh chỉ hôn em, và chỉ hôn. 

Cứ để nụ hôn không đếm xuể
Như lúa vô vàn giữa đồng kia.
Mình chia tay ư? – thật nhảm nhí
Anh sẽ thôi hôn? – không bao giờ!

Imitated From Catullus. To Ellen

Oh! might I kiss those eyes of fire,
A million scarce would quench desire:
Still would I steep my lips in bliss,
And dwell an age on every kiss;

Nor then my soul should sated be,
Still would I kiss and cling to thee:
Nought should my kiss from thine dissever;
Still would we kiss, and kiss for ever,

E'en though the numbers did exceed
The yellow harvest's countless seed.
To part would be a vain endeavor:
Could I desist? -- ah! never -- never!


MÔ PHỎNG THƠ TIBULLUS

Cerinthus nghiệt ngã thay! Anh đây sắp chết
Có phải em đang vui vì bệnh hoạn của anh?
Than ôi! Anh vẫn muốn vượt qua bệnh tật
Để lại được sống với tình và để sống vì em
Nhưng anh cũng sẽ không khóc vì số kiếp
Chỉ cái chết cứu anh khỏi thù hận của em.

Imitation Of Tibullus

Cruel Cerinthus! does the fell disease
Which racks my breast your fickle bosom please?
Alas! I wish'd but to o'ercome the pain,
That I might live for love and you again;
But now I scarcely shall bewail my fate:
By death alone I can avoid your hate. 


THƠ MỘ CHÍ CỦA TÔI

Tuổi trẻ, Thiên nhiên và Chúa trời quyền lực
Muốn để cho tôi cứ thắp sáng ngọn đèn
Nhưng bác sĩ Romanelli vẫn cứ kiên gan
Chiến thắng cả ba, và ngọn đèn tôi tắt. 

My Epitaph

Youth, Nature, and relenting Jove,
To keep my Lamp in strongly strove;
But Romanelli was so stout,
He beat all three, and blew it out.